Từ áo dài đến âu phục, trang phục nam giới Việt Nam một thời phong hoá
Ngày đăng: 09/06/20
Từ áo dài đến âu phục, trang phục nam giới Việt Nam một thời phong hoá được tái hiện qua bài viết sau đây.
Âu phục phương Tây đã từng bước đi vào đời sống xã hội và văn hoá của Việt Nam kể từ khi người Pháp áp đặt “sự bảo hộ” lên toàn Việt Nam vào giữa thập niên 80 của thế kỷ XIX. Tại các khu vực thành thị lớn tập trung nhiều thương nhân và người ngoại quốc như ở Hà Nội và Sài Gòn, các thợ may bản xứ đã nhanh chóng học hỏi được kỹ thuật cắt may âu phục từ những đơn đặt hàng của người Pháp. Nghề may âu phục trong nước đã được hình thành và dần chuyển hóa cách ăn mặc của đại bộ phận người Việt ở tầng lớp cao của xã hội.
Trong Ký sự hành trình Une campagne au Tonkin (Một chiến dịch ở Bắc kỳ), tác giả Charles Édouard Hocquard [1*], vốn là một thiếu tá quân y người Pháp trong Chiến dịch Bắc Kỳ, mô tả: “Khi đến Hà Nội, chúng tôi thấy những người bạn cùng đội hải quân mặc những bộ comple (veston) tuyệt đẹp bằng vải Flannel do những người thợ An Nam may. Cửa hàng may cũng giống như những cửa hàng của các tiểu thương Hà Nội. Đó là một ngôi nhà tranh khá giống nhà kho lớn được mở cửa hướng ra đường. Phía trong ngôi nhà chia thành hai buồng bởi tấm liếp tre đan lưới mắt cáo. Thợ may ngồi vắt chéo chân. Ba (tên chủ tiệm may) giải thích với họ là phải để lại một bộ làm mẫu. Giá khoảng bảy đồng bạc làm trong hai ngày đúng như mẫu”.
Lối sống đa văn hoá Đông-Tây và một nền trí thức Tân học [*2] được thúc đẩy bởi hệ thống giáo dục thuộc địa ở Đông Dương và các trường học tại Pháp, mang tới nhiều sự đổi thay của thời cuộc và cả những biến động văn hoá, phong tục truyền thống của dân tộc. Trang phục là một trong những nếp văn hoá rất dễ bị ảnh hưởng trong thời đó. Từ Kinh Thành, Đại Nội cho đến những căn dinh thự của đại địa chủ Nam Bộ, từ phố Hàng Đào, Hàng Ngang cho đến những cánh rừng cao su ngút tầm mắt, trang phục nam giới sớm bị âu hoá, áo dài-khăn xếp-guốc mộc dần bị thay thế bởi những bộ âu phục, thường bắt đầu bằng những cách ăn mặc đôi khi bị coi là kệch cỡm như kết hợp áo dài, khăn xếp với giày da, nón phớt (nón nỉ phớt hay nón homburg).
Đầu thế kỷ XX
Trong thế kỷ XIX, sự hùng mạnh của Đế chế Anh đã giữ quốc gia này ở ngôi vị kinh đô thời trang thế giới, nơi vạch ra các tiêu chuẩn trang phục phù hợp với địa vị xã hội. Suốt những thập niên đầu của thế kỷ XX, trang phục của nam giới Châu Âu vẫn còn mang dấu vết của kỷ nguyên Edwardian. Mặc dù đã giảm bớt tính bảo thủ, frock coat đã bị thay thế bởi chesterfield coat, morning coat và đến suit, nhưng vẫn giữ được kỹ thuật may đo khắt khe, chuẩn mực. Trang phục của quan chức người Pháp trong giai đoạn này còn chịu ảnh hưởng bởi phong cách Anh, từ đó quyết định xuất phát điểm của quá trình Âu hóa trang phục của nam giới Việt Nam.
Đầu thế kỷ XX, các khái niệm và tiêu chuẩn Âu phục tân thời đã trở nên quen thuộc với tầng lớp thượng lưu, trung lưu và giới trí thức, văn-nghệ sĩ ở Việt Nam. Ban đầu, chỉ một bộ phận quan lại, địa chủ, thương nhân Hoa Việt (hầu hết là đàn ông) làm việc và phục vụ dưới chế độ của người Pháp dần làm quen với những bộ âu phục, đồng hồ, giày tây và cả những mái đầu chải chuốt. Tiếp theo đó là một tầng lớp trí thức sinh ra vào đầu thế kỷ XX và trưởng thành trong môi trường giáo dục đã đi vào nề nếp của Pháp, là những người chịu sự ảnh hưởng lớn bởi văn hoá Pháp, nhưng đồng thời có khả năng tiếp cận sớm nhất với sự tiến bộ và biến động của thời kỳ hiện đại hoá.
Tổng Đốc Phương là người có mối giao thiệp rộng và thân thiết với các quan chức, tầng lớp thượng lưu và trí thức Pháp, Hoa, Việt. Bắt đầu từ Hội Nghiên cứu Nam Kỳ và Đông Dương (Société des Études Indo-chinoises), khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tầng lớp thượng lưu Hoa-Việt ở Nam Kỳ chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa Pháp mà ông Phương là một ví dụ nổi bật. Bản thân ông cũng là người yêu chuộng văn hóa Pháp, với một lối sống xa hoa pha lẫn phong cách Pháp-Hoa-Việt tại tư gia của mình.
Các con trai của ông Phương cũng thừa hưởng một nền giáo dục Pháp chính quốc, trong số họ có một người tên Đỗ Hữu Vị, là phi công người Việt phục vụ trong Quân đội Pháp và được cho là người Việt Nam đầu tiên lái máy bay chiến đấu.
Tổng Đốc Phương đã đến Pháp 4 lần, trong đó có một lần dự Hội chợ triển lãm năm 1889. Ông Phương là người tiếp thụ văn hoá Pháp và thể hiện sự Âu hoá từ rất sớm. Trong bức ảnh bưu thiếp, ông Tổng Đốc Phương vẫn đang giữ cách ăn mặc tuxedo đen trang trọng, chính thức của nam giới cuối thời Victoria (1837 – 1901), sơ mi cổ cao, evening waistcoat, tailcoat với ve áo cổ nhọn lụa satin, giày oxford boots, trang sức đồng hồ quả quýt và đặc biệt là bộ ria mép quý ông đặc trưng của thế kỷ XIX.
Ông Trạch nguyên là thành viên của Hội đồng Tư mật Nam Kỳ (Conseil Privé), nguyên chánh hội trưởng và đồng sáng lập Ngân hàng Việt Nam, ngân hàng đầu tiên do chính người Việt Nam sáng lập và điều hành. Trong ảnh, Hội đồng Trạch đang mặc suit theo phong cách điển hình của những năm 1900, black lounge suit (hay sack suit, stresemann suit) – một loại trang phục bán chính thức và giản thể của morning coat.
Cụ Nguyễn Văn Vĩnh (1882 – 1936) là người đầu tiên từ phải sang, rất nổi tiếng với câu nói “Nước Nam ta mai sau này, hay dở cũng ở như chữ Quốc ngữ” (1909); và cụ Phạm Quỳnh (1892 – 1945) đứng ở vị trí thứ 2 từ trái sang là người nói câu “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn” (1924)
Trong bức ảnh là những người đàn ông Việt Nam sinh ra trong thời kỳ đầu của chế độ thuộc địa Pháp. Đây là thời kỳ mà sự Âu hoá chỉ mang tính chất sao chép và mâu thuẫn, chưa thực sự đi vào lối sống, nhận thức và tư tưởng của người Việt. Âu phục được sử dụng như một phương tiện giao tiếp xã hội hơn là một cách ăn mặc thiết yếu. Do đó, những cá nhân có tinh thần chủ nghĩa quốc gia có xu hướng nghiêng về trang phục truyền thống như một biểu hiện phản kháng sự phong hoá.
Cụ Phạm Quỳnh là người tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và dùng tiếng Việt thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp để viết lý luận, nghiên cứu và xuất bản báo chí. Ông đã gắn bó với áo dài truyền thống trong suốt sự nghiệp của mình ở nửa đầu thế kỷ XX, giai đoạn mà âu phục dần có một chỗ đứng vững chắc để hiện đại hoá cách ăn mặc của người Việt.
Hoạ sĩ Nam Sơn, tên thật là Nguyễn Vạn Thọ, là con trai duy nhất của một nhà nho đảm nhiệm chức thư ký phủ Thống sứ Bắc Kỳ Nguyễn Văn Khang (1871 – 1894). Hoạ sĩ Nam Sơn là người đồng chí hướng với hoạ sĩ người Pháp Victor Tardieu. Cả hai cùng thành lập trường Mỹ Thuật Đông Dương tại Hà Nội vào năm 1924, mong muốn tạo ra một môi trường nghiên cứu bản sắc nghệ thuật Đông Dương và khai sinh nền nghệ thuật dân tộc Việt Nam. Hoạ Sĩ Sơn Nam cũng là một trong những hoạ sĩ đầu tiên của nền hội họa đương đại Việt Nam.
Từ thập niên 20
Trước 1920 là thời đại mà trang phục vẫn mang tính chính thức để khẳng định địa vị và giai cấp xã hội. Việc ăn mặc và phục sức một cách chuẩn mực, hợp thời chính là công cụ để thể hiện vị thế của mỗi người. Nhưng điều đó sẽ thay đổi, thời kỳ hậu Thế Chiến I sẽ mở ra một kỷ nguyên mới.
Cuộc cách mạng trong hầu hết mọi lĩnh vực đồng thời đã dựng nên các kinh đô kinh đô thời trang mới, sự phong hóa ngày càng lớn rộng và ly tâm đến tận vùng Viễn Đông, nước Pháp vô tình đóng vai trò truyền cảm hứng và chuyển hóa “những năm hai mươi vàng son” (Golden Twenties *3), ảnh hưởng điện ảnh lãng mạn (cinematic influence) của thập niên 30, và sự phổ biến của sportswear trải rộng những năm 1940 – 1950 vào xứ Đông Dương, đặc biệt là tại Việt Nam.
Trong lịch sử thế giới, trang phục nam của thập niên 20 được xem là khởi đầu của thời trang nam hiện đại ngày nay. Đó là một quá trình giản lược và chắt lọc những yếu tố cổ điển, thừa hưởng những thành tựu và phát triển liên tục theo dòng thời gian của nó để ngày càng đến gần với cách ăn mặc hiện đại ở thế kỷ XXI. Ngay từ thập niên 20 này, thẩm mỹ “nam tính” đã rất khác so với cách ăn mặc, phục sức của nam giới trước thế kỷ XX.
Trong thời gian chờ đợi cuộc cách mạng thời trang thể thao (một cú thúc mạnh của công nghiệp hoá), quần áo thiết yếu trong tủ quần áo nam giới từ những năm 1920 đến 1930 chính là suit. Trong phần lớn các sự kiện, hoạt động, công việc, các bữa tiệc ngày và đêm, suit là lựa chọn đầu tiên và duy nhất để bước ra xã hội. Đối với nam giới Việt Nam thời kỳ này, suit là tiêu chuẩn phù hợp với thời thế, nhưng song song đó, trang phục áo dài-khăn xếp truyền thống của dân tộc vẫn giữ một vị thế cao.
Trong ảnh, trang phục Á Đông lẫn Tây Phương của các thế hệ sinh viên đầu tiên tại trường Mỹ Thuật Đông Dương cho thấy biểu hiện của một giai đoạn phong hoá từ trang phục áo dài truyền thống đến âu phục hiện đại. Giai đoạn giữa thập niên 20, âu phục nam giới Việt Nam nếu diễn giải từ bức ảnh, cho thể thấy khá phổ biến single-breasted coat, chất liệu nhẹ và đa phần là những màu sáng, suit được cắt may vừa vặn và dựng phom theo dáng người, hai túi có nắp, độ dài quần hiếm khi phủ cổ chân nhằm để lộ phần tất khi ngồi, giày tây trắng khá được ưa chuộng, mặc dù những chiếc áo sơ mi cổ gladstone và kiểu thắt cravat vẫn mang ảnh hưởng của phong cách Edwardian.
Thập niên 20 của thế kỷ trước có một sự phân biệt giữa phong cách ở giai đoạn nửa đầu và nửa cuối. Những năm đầu 1920, suit 3 mảnh là tiêu chuẩn âu phục nam giới với nhiều chi tiết còn mang ảnh hưởng của thời Edwardian. Trong đó, các kiểu waistcoat (hay vest, ghi lê) có một sự đa dạng nhất định. Các kiểu U-neck chính thức dành cho các sự kiện tối (evening suit) có lẽ không thực sự phổ biến trong văn hoá Việt Nam, thay vào đó là các kiểu V-neck waistcoat mặc thường nhật, cổ V cao có ve hẹp, vạt ngang, quần âu suông thẳng và có độ rộng vừa phải (độ rộng chỉ bằng ½ so với một xu hướng sẽ sớm nổi lên trong vài năm tới, và kéo dài trong 2 thập niên sau đó). Hầu hết waistcoat và suit jacket trong thập niên 20 đều phổ biến dạng single-breasted (đơn ngực).
Màu sắc âu phục của nam giới trong thập niên 20 quen thuộc với các gam màu nâu sẫm, nâu nhạt, xanh lam trung tính, xanh đậm và xám, phấn, trắng. Một bộ suit gangster đen sọc trắng là kiêng kỵ đối với quý ông thanh lịch thời này. Chất liệu vải lanh màu trắng ngà và vải cotton trắng phù hợp với khí hậu nhiệt đới của xứ Đông Dương, do đó là màu sắc thông dụng đối với người Pháp lẫn người Việt trong nước.
Những bộ suit trắng (tông trắng ngà, hoặc các màu pastel) là một trong những biểu tượng của “giấc mơ tuổi trẻ” The Great Gatsby (một kiệt tác của nhà văn F. Scott Fitzgerald người Mỹ, xuất bản lần đầu vào tháng 4/1925), thuật lại bối cảnh thời trang và lối sống thượng lưu diễn ra vào năm 1922. Phong cách lounge suit của những năm đầu 1920 (thời điểm trước khi kiểu quần oxford bags xuất hiện) mang tính biểu tượng cổ điển lẫn hiện đại của sinh viên trường Ivy League trước và sau thời nổi loạn, với sức phổ biến lan khắp các trường đại học Anh, Mỹ và thế giới. Ngày nay, Ivy League là một thuật ngữ phong cách thời trang, tiền thân của phong cách preppy rất được ưa thích bởi những người theo đuổi thời trang vintage.
Trong những năm 1920, việc bắt kịp các mode thời trang và thể hiện giá trị vật chất thông qua cách ăn mặc là một thái độ trang trọng, một nguyên tắc lịch sự trong ngoại giao của tầng lớp trung lưu, thượng lưu ở Châu Âu, Mỹ và cả những khu vực sớm du nhập các nền văn hoá quốc tế.
Từ suốt thập niên 20, thương mại nội địa trong nhiều lĩnh vực đã có sự phát triển vượt trội. Chính sách quy hoạch kinh tế đô thị và hạ tầng giao thông phát triển bởi người Pháp, đã tạo điều kiện cho các thương buôn người Việt nhanh chóng tiếp xúc với quy luật cung-cầu tự nhiên của nền kinh tế thị trường. Trên các tờ báo lớn thời bấy giờ như Công Luận báo, Hà Thành Ngọ Báo, Tiếng Vọng An Nam, Đông Pháp Thời Báo…đã phản ánh một thị trường cạnh tranh sôi nổi thông qua các chủ đề bàn luận và quảng cáo.
Ở giai đoạn nửa cuối thập niên 20, kiểu quần âu ống hẹp, để lộ bít tất và cổ giày đã trở nên lỗi thời. Tại Châu Âu, các Hoàng tử xứ Wales đã bắt đầu xu hướng ống gập lai (cuff) và trở thành trendsetter của nam giới trên khắp thế giới. Hình bóng suit của nam giới có sự thay đổi tổng thể, xuất hiện xu hướng oxford bags (từ phom baggy đến xoè rộng thùng thình), lai cuff, eo cao và khá phổ biến cho đến cuối những năm 1940.
Trong suốt quá trình phong hóa trên toàn lãnh thổ (1900 – 1950), cho đến một thời phong lưu của đô thành Sài Gòn ở các thập niên 50 – 70, âu phục hiện đại không chỉ rất được chú trọng bởi các nguyên thủ quốc gia, tướng lĩnh, công chức và những nhà kinh doanh lớn, mà còn thông dụng trong dân chúng đối với cả nam giới lẫn phụ nữ, khẳng định được tính đối trọng trước các cường quốc. Nhưng áo dài khăn xếp truyền thống vẫn là quốc phục tinh tuý và luôn xuất hiện trong những dịp quan trọng thể hiện danh tính của đất nước.
Từ thập niên 30
Niên hiệu Bảo Đại bắt đầu từ năm 1925 dưới chính sách quản lý của Toàn Quyền Đông Dương. Nhưng trong suốt các thập niên đầu thể kỷ XX, trước cả khi vua Bảo Đại về nước chấp chính (1932) và kéo dài cho đến gần cuối thập niên 50, các chính sách thương mại trên khắp Việt Nam đã được vận hành và phát triển (mặc dù các lý thuyết và chủ trương có sự khác nhau) với khuynh hướng chung là biến Hà Nội và Sài Gòn thành hai trung tâm kinh tế lớn trên toàn thuộc địa Đông Dương, nối gót ngay sau nền kinh tế và tình hình chính sự của Châu Âu, mà chủ yếu là nước Pháp.
Trong thập niên 30, ở phương Tây, double-breasted jacket trở nên khá thời trang, có thể được mặc với single-breasted waistcoat hoặc không. Một phiên bản double-breasted jacket nổi tiếng là phong cách “Duke of Kent” (tạm dịch: Công tước xứ Kent), được giới thiệu bởi Prince Edward, đây là kiểu cài nút 6×2 hoặc 4×2, chỉ cài các nút hàng dưới cùng để tạo ảo giác ve áo kéo dài hơn, khiến vóc dáng trông cao hơn, mang lại vẻ phóng khoáng và trẻ trung. Cảm hứng này đã trở thành xu hướng và dẫn dắt sự sáng tạo các kiểu cài nút trong nhiều thập niên sau.
Một ảnh hưởng khác trong thập niên 30 là cách mặc zoot suit của gangster trong điện ảnh Mỹ. Những bộ suit kẻ sọc hoặc caro nổi bật, màu sắc đậm hoặc tươi sáng, vai ngang rộng, ve cổ áo to bản, những chiếc quần oxford bags thụng, nón fedora rộng vành và giày da 2 tông (brogue 2 tone).
Trang phục của cả hai ngài đặc biệt trịnh trọng, với single-breasted morning coat, waistcoat, pocket square, găng tay và silk top hat. Tuy nhiên, kiểu quần mà Vua Bảo Đại đang mặc được cắt đo theo xu hướng oxford bags đang thịnh hành, được xem là hiện đại và trẻ trung hơn so với ngài Bộ trưởng.
Hai bức ảnh được chụp vào năm 1932, vua Bảo Đại ghé thăm Maroc trong khi đang trên đường quay về nước chính thức chấp chính. Vua Bảo Đại mặc double-breasted waistcoat 6 buttons với single-breasted jacket, trong khi Hoàng thân Vĩnh Cẩn mặc double-breasted jacket 6×2 (button 2, show 2), cả hai ngài đều rất hợp thời với ve cổ áo rộng và cravat to bản.
Đáng chú ý trong bức ảnh chính là phong cách suit rất hợp thời của hoạ sĩ Lê Phổ, trông như được may bằng vải flannel tối tân mới nhập vào Việt Nam không lâu. Ban đầu, đây là loại vải thô xuất hiện sớm từ thế kỷ XVI, nhưng mãi đến thế kỷ XX mới kết hợp với lụa và cotton, ra đời loại flannel cao cấp dùng để may suit và phổ biến trong các loại quần áo thể thao. Sự thịnh hành của chất liệu và phong cách flannel suit vẫn kéo dài cho đến cuối những năm 1970.
Trang phục của nam giới Việt Nam đã sự thay đổi lớn trong suốt thập niên 30 và kéo dài đến giữa thế kỷ, dưới sự dẫn dắt của những quý ông Việt Nam có ảnh hưởng nhất trong tư tưởng đạo đức và phong kiến thời này. Âu phục đã trở nên thông dụng tuyệt đối nhưng áo dài vẫn là tiếng nói dân tộc, là loại trang phục mực thước, uy nghi và xứng đáng nhất để có mặt trong các sự kiện quan trọng của quốc gia cũng như cá nhân mỗi người.
Cả hai bức ảnh trên được chụp vào tháng 6 và tháng 7/1939, trong thời gian vua Bảo Đại điều trị vết thương ở chân tại Pháp. Ngài đã bị thương ở chân khá nặng trong một chuyển đi săn do đó được đưa sang Pháp để chữa trị. Phong cách của Vua trong hai bức ảnh cho thấy xu hướng oxford bags có sức ảnh hưởng ở Việt Nam (nhất là đối với một bậc thượng lưu như ngài).
Phong cách thập niên 40 tính từ khi bắt đầu Thế Chiến II và sau đó là sự ảnh hưởng của thời hậu chiến. Trong thời chiến nửa đầu 1940, các quy định nghiêm ngặt đối với trang phục chính thức, trang trọng không thể thực thi khi phần lớn mọi người không thể mua hoặc cũng không có đủ quần áo để mua.
Mặc dù có sự hạn chế về quần áo và nhưng không có nghĩa là không có thời trang. Tuy các mảnh waistcoat, nắp túi và lai cuff được xem là một biểu hiện của sự lãng phí, xa xỉ do đó tạm loại khỏi dòng thời gian. Nhưng khi chiến tranh kết thúc, đồng phục quân sự dư thừa trở về cuộc sống dân sự, người dân có thể mua lại và sửa chữa một số chi tiết. Trong khi đó, những đứa trẻ cứ thế mặc “quá khổ” qua nhiều năm cũng là một cách tiết kiệm. Vì những gì có thể đều được tận dụng và tái sử dụng, một số đặc điểm của thập niên 30 nối dài đến đầu thập niên 50.
Khuynh hướng tiết giảm trong những năm hậu Thế Chiến II đã cổ súy cho hình bóng chữ nhật của suit jacket. phom dáng thẳng gọn, phóng khoáng, tránh hao phí vải vào những kỹ thuật cắt may cầu kỳ. Trang phục nam giới trong giai đoạn này có xu hướng “quá cỡ” mọi chi tiết, dù là dùng trong các hoạt động ban ngày, thể thao hay sự kiện tối.
Suit jacket trong những năm 1940 đặc biệt có vai ngang quá khổ, bản ve dày hơn, cravat cũng to hơn, quần thụng hơn, xếp ly đôi và mode quần ống rộng vẫn tiếp tục, tay áo và túi áo cũng lớn hơn, ngay cả các gân dệt và kẻ sọc cũng đậm và to hơn, tất cả khiến cho hình bóng thời trang nam giới trong bệ vệ, khỏe khoắn và cao lớn hơn.
Zoot suit là trào lưu tiếp nối của oxford bags, một phong cách rộng thùng thình, áo jacket dài, quần ống rộng, một sự lệch chuẩn khó hiểu so với thời kỳ đầu hiện đại hoá của thập niên 20. Mặc dù được hưởng ứng nhiều nhất bởi giới trẻ nội thành nổi loạn nhưng zoot suit cũng có ảnh hưởng đến tỷ lệ của phong cách suit của nam giới trưởng thành.
Trong suốt những năm 1940, suit vẫn là trang phục thông dụng nhất đối với nam giới. Nhưng cuộc cách mạng cải tiến máy móc, phát triển dệt may và sản xuất quần áo quân sự phục vụ chiến tranh, sẽ dẫn đến sự bùng nổ của một ngành công nghiệp thời trang may sẵn kể từ thập niên tiếp theo đó. Ở phương Tây, sự cởi bỏ một số nguyên tắc trang phục khiến cho thời trang nam giới ngày càng trở nên đa dạng, có xu hướng giản dị và có tính chức năng, phù hợp hơn cho hoạt động ban ngày và thể thao. Trench coat, pea coat, bomber jacket, quần áo dệt kim mặc lót, quần chino và những chiếc kính mát, đồng hồ quân đội…đều được ra đời thời hậu Thế Chiến II và sẽ trở thành những biểu tượng của thời trang thời hiện đại.
Bước vào thập niên 50
Dòng thời gian của âu phục nam giới trong thế kỷ XX, đặc biệt là giai đoạn 1920 – 1970, luôn chịu sự ảnh hưởng của biến động lịch sử, bối cảnh chiến tranh và sự đổi ngôi của các kinh đô thời trang trên thế giới.
Đối với đàn ông trung niên, phong cách quần rộng và lai cuff cao vẫn được hâm mộ cho đến giữa thập niên 50. Thế hệ này đã xây dựng một phong cách quý ông hiện đại kéo dài nhiều thập niên và họ không có ý định chạy theo mode nữa. Đàn ông trung niên trong thập niên 50 đã không ngừng thay đổi diện mạo của họ trong suốt các thập niên trước, từ khuôn khổ đến thông dụng, kết quả là âu phục nam giới đã ngày càng giản dị và thoải mái hơn nhưng suit vẫn chiếm một vị trí xã hội đáng kính.
Mặc dù các màu đen, hải quân, nâu cũng rất được yêu thích nhưng các tông màu xám được mặc nhiều nhất, phổ biến đến mức trong tiểu thuyết The Man in the Grey Flannel Suit của tác giả Sloan Wilson (phát hành năm 1955), hình ảnh grey flannel suits của nam giới những năm 1950 trở thành dấu hiệu nhận diện của tầng lớp trung lưu bảo thủ, trọng lối sống vật chất và quá bận rộn.
Ở Âu-Mỹ, nơi khai sinh và phát động các trào lưu thời trang, các thiếu niên và thanh niên trưởng thành trong thời kỳ này bắt đầu tìm kiếm một luồng gió trẻ trung hơn, họ chọn những chiếc quần âu ống côn thay vì mặc mãi một kiểu quần âu ống rộng như các ông bố, suit jacket sẽ bị thay thế bởi các loại biker jacket, bomber jacket và mái tóc pompadour thì không cần những chiếc mũ che đi chúng. Kết quả của quá trình phát triển công nghiệp sau 2 thập niên từ 20 – 40 sẽ đáp ứng nhanh nguyện vọng đó.
Những bộ âu phục chính thức nhường chỗ cho các loại quần áo may sẵn lấy cảm hứng từ đồng phục quân đội thời hậu chiến, với đủ các loại chất liệu dệt kim, sợi nhân tạo, denim, kaki và các loại áo khoác. Các loại trang phục được thiết kế chuyên biệt cho các môn thể thao phổ biến như bóng đá, tennis, đua xe, golf…đã có mặt trong thập niên 20 sẽ sẵn sàng cho một cuộc cách mạng công nghiệp sản xuất quần áo kể từ thập niên 50.
Từ quần áo thi đấu đến thường phục, từ chính thức thành bán chính thức, thời trang thể thao bùng nổ các loại áo dệt kim như t-shirt, áo polo, áo lót thể thao (áo thun 3 lỗ), áo ghi-lê cho đến các loại quần shorts. Trên thực tế, ở thời kỳ chiến tranh và hậu chiến, thay vì một bộ suit may đo đắt tiền, chỉ cần áo sơ mi, áo polo hay cardigan, ghi-le với chất liệu linh hoạt và giá thành rẻ, sẽ có thể đáp ứng được đông đảo nhu cầu của tầng lớp công chức và quần chúng lao động có tài chính khiêm tốn.
Dù vậy, tiêu chuẩn trang phục nam giới vẫn giữ hình tượng trang nghiêm, tề chỉnh với quần âu, quần chino ống côn, áo sơ mi màu sắc thanh lịch, kéo dài gần cuối thập niên 50 trước khi trở nên rất khác do cộng hưởng với văn hoá đại chúng Mod và Hippy trong suốt thập niên 60.
Thời trang thế giới vẫn vận động không ngừng trong suốt thời kỳ hậu Thế Chiến II. Ở Việt Nam, kể từ khi người Pháp rời đi, thời trang tiếp tục được rót vào các trào lưu mới nhưng ở một chiều hướng khác, từ đó thành phố Sài Gòn hoa lệ sẽ tiếp nhận một giai đoạn phong hoá mới.
Những năm đầu thập niên 50, so với phái đẹp, nam giới Việt Nam đặc biệt là ở Sài Gòn, nhìn chung có vẻ ngoài khiêm nhường và tinh giản hơn, chú trọng phong cách lịch lãm và một phong thái bạt thiệp. Tiêu chuẩn quý ông đã trở nên bình thường và giản lược hoá, âu phục gần gũi hơn với cuộc sống đời thường của cư dân thành thị vì một sự phù hợp tất yếu.
Thời kỳ này, số phận của áo dài truyền thống Việt Nam cũng phân nhánh. Áo dài nam đã giữ một vị thế “quân chủ” quan trọng trong suốt lịch sử của các triều đại phong kiến, và là một biểu tượng của các trào yêu nước thời cận đại. Chính vì giữ một vị thế khiêm cung, nghiêm cẩn đến như thế nên khi đứng trước sự đứt gãy của thời đại, áo dài nam ngày trở nên xa cách với các thế hệ sau và dần bị lãng quên.
Khác với áo dài nam, sự Âu hoá trang phục nữ bắt đầu muộn hơn, sau khi áo dài nữ đã được hiện đại hoá, sáng tạo hơn và quyến rũ hơn, nhưng vẫn giữ được bản sắc truyền thống. Từ những năm 1930 cho đến cuối 1950, áo dài nữ đã bắt đầu một hành trình làm thay đổi tiêu chuẩn thẩm mỹ lẫn cấu trúc truyền thống của chính nó cho đến tận ngày nay. Kết quả của các nỗ lực bình đẳng giới sau hơn 100 năm của các nhà nữ quyền trên khắp thế giới đã nâng cao tinh thần tự do của phụ nữ ở mọi châu lục. Phụ nữ Việt Nam hiện đại đã biến hoá “áo dài” thành bất cứ vai trò xã hội nào mà họ muốn. Áo dài có thể chỉ là một chọn lựa y phục kín đáo đoan trang để đi mua sắm, đi lễ chùa; nhưng cũng có thể là một bộ trang phục dạ tiệc cao quý, đài các trên phim ảnh, thuần khiết trong học đường hay thật thiêng liêng trong lễ cưới, có thể mặc đi khiêu vũ và cũng có thể là “cô gái Sài Gòn phóng Vélo Solex rất nhanh”
Chú thích
[*1] Ký sự hành trình Une campagne au Tonkin (Một chiến dịch ở Bắc kỳ) xuất bản lần đầu tiên bằng tiếng Pháp, đăng trên tạp chí Le Tour du Monde (Vòng quanh thế giới) với tiêu đề “Trente Mois au Tonkin” (Ba mươi tháng ở Bắc kỳ), được chia làm 5 phần đăng từ năm 1889 đến 1891. Năm 1982, tác giả sửa tựa thành Une campagne au Tonkin để nhà xuất bản Hachette (Paris) in toàn bộ tác phẩm bao gồm 229 tranh khắc. Năm 2020, ký sự này đã được chuyển ngữ sang tiếng Việt và phổ biến các bản dịch khác nhau bởi nhà xuất bản Đà Nẵng (Alpha Book cung cấp, dịch giả Thanh Thư) và nhà xuất bản Văn Học (Đông A cung cấp, dịch giả Đinh Khắc Phách) , cả hai phiên bản đều nằm trong top 100 tác phẩm lịch sử – địa lý – tôn giáo bán chạy/tháng của nhà sách Fahasa.
[*2] Trí thức “Tân học” hay trí thức “Tây học” là một giai đoạn, hoặc một phong trào, một tầng lớp có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử Việt Nam thời cận đại ( đầu thế kỷ XX). Đây là cơ sở ra đời của hầu hết các nhà lãnh đạo mọi đảng phái, các nhà trí thức yêu nước, nhà cách mạng, nhà vận động văn hoá xã hội… ở Việt Nam từ sau Thế Chiến I.
[*3] Golden Twenties, hay Années folles (Pháp), Roaring Twenties (Anh), Goldene Zwanziger (Đức): là tên gọi của những năm 1920 ở thế kỷ trước, bắt đầu với sự kết thúc của Thế Chiến I và kết thúc với Cuộc sụp đổ Phố Wall (Wall Street Crash) năm 1929.
Thực hiện: Xu