Làng tơ Cổ Chất – Nam Định: nổi lửa lò ươm, giữ nghề truyền thống

Ngày đăng: 26/04/25

Làng nghề tồn tại và phát triển như một phần không thể tách rời khỏi lịch sử truyền thống và hiện đại của làng quê Bắc Bộ. Tỉnh Nam Định là vùng đất tập trung nhiều làng nghề truyền thống nhất ở miền Bắc. Để gìn giữ tiếng thoi truyền đời, xa quay kẽo kẹt và mùi nhộng tằm tanh ngai ngái của cơ nghiệp cha ông, huyện Trực Ninh – Nam Định vẫn cố gắng vẫn duy trì nghề ươm tơ dệt vải ở các làng Cự Trữ, Cổ Chất, Dịch Diệp. Trong đó, riêng làng Cổ Chất vẫn còn bám trụ với nghề ươm tơ thủ công. 

Nằm bên bờ sông Ninh, vùng đất Cổ Chất (xã Phương Định, huyện Trực Ninh) được thiên nhiên ưu đãi với bãi bồi màu mỡ, điều kiện lý tưởng cho nghề trồng dâu nuôi tằm phát triển. Từ bao đời nay, người dân nơi đây đã gắn bó với con tằm, sợi tơ như một phần máu thịt. Dù trải qua biết bao thăng trầm lịch sử, làng nghề vẫn bền bỉ tồn tại. Thời buôn bán tơ tằm sôi động đã lùi xa, nhưng cái tên Cổ Chất vẫn là niềm tự hào của cả một vùng. Với người dân nơi đây, sợi tơ không chỉ là kế sinh nhai mà còn là tinh hoa của bao thế hệ, là sản vật quý giá đong đầy ký ức và công sức cha ông.

Trong những ngày Hè nắng nóng khắc nghiệt như hiện nay, một số hộ dân Cổ Chất vẫn miệt mài ươm tơ như một sinh kế, cố gắng trước sự mai một của nghề thủ công và lạc quan tin tưởng rằng làng sẽ không bị mất nghề.

“Nam Định có bến Đò Chè. Có tàu Ngô Khách, có nghề ươm tơ”

Ngôi làng nhỏ nằm ven sông Ninh Cơ, thuộc địa phận xã Phương Định, huyện Trực Ninh, Nam Định. Xưa kia làng Cổ Chất sống nhờ vào nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ, quay sợi. Theo các bậc cao niên của làng, cái nghề tang tằm đã tồn tại ở Cổ Chất khoảng vài trăm năm, nhiều gia đình đã trải qua gần chục đời sinh sống bằng cái nghiệp nong tằm né kén guồng tơ.

Thời thuộc Pháp vào khoảng đầu thế kỉ XX, giới tư bản Pháp đã đầu tư xây dựng một nhà máy ươm tơ ở ngày đầu làng. Từ đây, nghề ươm tơ ở làng Cổ Chất bắt đầu phát triển mạnh. Làng Cổ Chất và huyện Trực Ninh nói chung từng có lúc là vành đai nguyên liệu chính của công ty Bông Vải Sợi Bắc Kỳ (chủ quản là một số nhà tư bản người Pháp) trong những năm 1900. Khoảng vài thập kỷ gần đây, Cổ Chất vẫn còn phú thịnh và là nơi cung cấp tơ sợi chất lượng cho các làng dệt lụa nổi tiếng trong nước. Xót xa thay, trải qua thăng trầm lịch sử, Cổ Chất hiện không còn gìn giữ được nong tằm nương dâu. 

Từ xưa đến nay, kỹ thuật ươm tơ ở làng Cổ Chất đã trứ danh khắp xa gần. Có lẻ sự khác biệt giữa tơ sợi làng Cổ Chất so với tơ ở vùng khác đã khiến cho nghề ươm còn trụ nổi ở vùng đất hiền hòa này. Kỹ thuật ươm tơ thủ công đòi hỏi sự khéo léo và kiên nhẫn của người thợ. Từ việc lựa chọn và phân loại kén tằm, cho đến việc đảo kén lấy mối tơ, tay thoăn thoắt mắt không rời để kéo tơ đều sợi, tạo nên những nén tơ căng chắc và óng mượt. Tuy nhiên, kỹ thuật ươm tơ truyền thống này đang dần thất truyền, vì ngay cả các nhà nghề hiện giờ cũng khó có thể nối nghiệp bởi lớp trẻ. Và mai đây, biết có tìm được nương dâu kén tằm nữa chăng để mà ươm tơ kéo sợi.

Thời vụ ươm tơ ở làng Cổ Chất

Làng Cổ Chất ươm cả tơ vàng lẫn tơ trắng, nhưng tùy theo mùa. Vụ ươm tơ đầu tiên bắt đầu từ khoảng tháng 2 – 3 âm lịch cho đến tháng 9 âm lịch hàng năm, hoặc có thể làm thêm vụ tằm ép cuối năm vào tháng 12 dương lịch nếu có kén.

Thời điểm cuối tháng 4, tìm đến làng Cổ Chất chỉ thấy những bó tơ trắng phơi trên những thanh sào tre cuối chợ. Ngay gần đó là xưởng ươm tơ của gia đình chị Nguyễn Thị Yến, nơi những người phụ nữ miệt mài làm việc bên lò luộc kén, đôi tay liên tục khoáy đũa đảo kén đưa đẩy những sợi tơ mỏng manh từ kén tằm cuốn vào guồng tơ quay tít, màn hơi nóng bốc lên nghi ngút trong một không gian tối tăm ẩm ướt.

Tơ nhà đem bán chợ người

Những cuộn tơ sống sau khi được phơi khô, sẽ được đem đi se sợi. Tơ thành phẩm thường chia làm 3 loại: tơ tốt nhất gọi là sợi mốt, kế đến là sợi mành và cuối cùng là sợi đũi. Các thương lái đến mua ở tận làng, chuyển đi các vùng dệt lụa lân cận Hà Nội, tuy nhiên tơ Cổ Chất phần nhiều xuất khẩu ra các nước trong khu vực như Lào, Campuchia, Thái Lan và cả Trung Quốc.

Gian truân đi tìm mối tơ kéo kén

Ngày nay, nhiều nghề thủ công truyền thống đang dần mai một, và nghề ươm tơ ở làng Cổ Chất không ngoại lệ. Trước đây, cả làng từng có gần 200 hộ theo nghề, nhưng đến nay chỉ còn khoảng 30 hộ còn gắn bó. Nguyên nhân đến từ nhiều phía: một phần vì thế hệ trẻ không còn đủ đam mê để tiếp nối, phần khác vì giá thành nguyên liệu, đặc biệt là kén tằm ngày càng cao và khan hiếm. Những người còn bám nghề phải chật vật lo toan đủ đường, từ nguyên liệu đầu vào đến thị trường đầu ra. 

Nguồn cung cấp kén cho làng Cổ Chất trước đây chủ yếu đến từ thôn Hợp Hòa, nằm sát bờ đê sông Ninh Cơ, cùng xã Phương Định. Tuy nhiên, diện tích trồng dâu ở thôn này nay đã thu hẹp đáng kể. Nuôi tằm nai (dệt tơ) vốn cực nhọc hơn nhiều so với tằm ré (nuôi lấy nhộng làm thực phẩm), trong khi giá bán lại không cao bằng, khiến nhiều hộ buộc phải chuyển hướng. Hiện tại, làng Cổ Chất phải tìm mua kén từ các vùng lân cận như Thanh Hóa, Thái Bình, Hà Nam, và cả Gia Lâm (Hà Nội).

Cạnh tranh từ lụa ngoại nhập cũng là một sức ép lớn. Với mẫu mã đa dạng, giá cả cạnh tranh, các sản phẩm lụa công nghiệp khiến sợi tơ truyền thống dần đánh mất chỗ đứng trên thị trường. Trong khi đó, công việc thủ công lại nặng nhọc mà thu nhập bấp bênh, khiến người trẻ ở Cổ Chất không còn mặn mà với việc kế nghiệp..

Ảnh: Flickr/DucTran.

Liệu con tằm có tiếp tục nhả tơ?

Ở quy mô toàn quốc, theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Việt Nam hiện có gần 40.000 hộ nông dân làm nghề trồng dâu nuôi tằm. Năm 2023, diện tích trồng dâu đạt khoảng 13.200 ha, sản lượng kén hơn 16.800 tấn, và sản lượng tơ khoảng 2.000 tấn. Việt Nam đang đứng thứ ba thế giới về sản lượng tơ, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ. Năm 2022, giá trị xuất khẩu tơ lụa đạt khoảng 70 triệu USD, trong đó hơn 90% tơ thô được xuất khẩu sang Ấn Độ.

Tuy nhiên, nghề trồng dâu nuôi tằm trong nước vẫn còn mang tính tự phát, quy mô nhỏ lẻ và manh mún. Việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong giống, canh tác và phòng trừ sâu bệnh còn hạn chế. Thêm vào đó, nuôi tằm vẫn phụ thuộc lớn vào thời tiết và dễ bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu, dẫn đến sản lượng kén thực tế thường thấp hơn nhiều so với tiềm năng.

Dù nghề ươm tơ truyền thống ở Cổ Chất đang dần mai một, thì vẫn còn “ánh sáng cuối đường hầm” bởi xu hướng tiêu dùng bền vững, thuận tự nhiên trỗi dậy, tạo cơ hội cho “con tằm tiếp tục nhả kén”. Một khảo sát gần đây của tổ chức Roundup cho thấy 73% nam giới trong độ tuổi 25-34 sẵn sàng chi trả nhiều hơn cho các sản phẩm thời trang bền vững. Đồng thời, 69% độc giả tạp chí Vogue coi yếu tố bền vững là tiêu chí quan trọng khi mua sắm, với 85% thương hiệu thời trang lớn đã công bố các cam kết phát triển bền vững.

Ảnh: Flickr/ThanhVespa.

Xu hướng này cho thấy người tiêu dùng, cả trong nước và quốc tế, đang ngày càng ưu ái các sản phẩm dệt may có nguồn gốc tự nhiên, đặc biệt là tơ lụa. Với chất liệu gắn liền với văn hóa và truyền thống, lụa Việt Nam có thể không chỉ tồn tại mà còn tìm được chỗ đứng vững chắc nếu biết bắt nhịp với thay đổi này. Đó là một cơ hội đáng giá cho những ai còn đủ đam mê để giữ lửa nghề tơ.

Thực hiện: Xu

Cập nhật 04/2025: Lenna